Gần
đây giới doanh nhân bắt đầu quan tâm nhiều đến vấn đề định giá doanh nghiệp.
Cũng dễ hiểu là vì các hoạt động cổ phần hóa, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp
(Merger & Acquisition - “M&A”) đang ngày càng tấp nập hơn.
![]() |
Định giá doanh nghiệp và thương hiệu |
Trong
sáu năm qua, thương trường thế giới có quá nhiều tiền thặng dư (vấn đề
liquidity), dẫn đến tình huống tín dụng dễ dãi, đầu tư cẩu thả. Đây là hiện
tượng mà cựu Thống đốc Ngân hàng Trung ương Mỹ là ông Alan Greenspan đã gọi là
cái “tâm lý sung mãn bất hợp lý” (irrational exuberance). Từ vài tháng qua,
luật nhân quả đã thể hiện qua sự khủng hoảng của giới ngân hàng cho vay nhà đất
ở Mỹ và các quỹ đầu tư. Thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ giảm sút trầm trọng,
kéo theo một loạt báo động trên những TTCK khác.
Ở Việt Nam, hoạt động
kinh tế thương mại đã tăng nhanh từ khi bắt đầu hội nhập vào thị trường thế
giới, từ Hiệp định thương mại song phương với Mỹ cách đây hơn năm năm, đến việc
gia nhập WTO đầu năm nay. Các quỹ đầu tư đã tăng từ chỉ vài quỹ nước ngoài với
số vốn khiêm tốn đến trên 80 quỹ đầu tư hiện nay (cả trong và ngoài nước), với
số vốn trung bình lên đến vài trăm triệu USD, kể cả vài quỹ đã nâng vốn lên
trên một tỉ USD.
Thị trường chứng khoán
trong nước cũng đã “kéo” được một số vốn đáng kể từ trong dân. Chỉ trong vòng
hai năm, một số tiền lớn (tương đối so với thị trường trong nước) đã được đầu
tư vào các doanh nghiệp, phần lớn chưa được chuẩn bị để sử dụng những đồng vốn
này một cách đúng mực. Nhận vốn đầu tư là nhận nợ, là nhận một gánh nặng trách
nhiệm để phải tăng hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp nhằm tăng trưởng bền
vững, tương xứng với mức vốn đã nhận được. Nhiều doanh nghiệp trong nước đang
bị ru ngủ với sự sung mãn giả tạo, quên đi trách nhiệm phát triển nội lực để
theo kịp với sự đòi hỏi của thị trường.
Trong vài năm tới, hoạt
động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp sẽ nhộn nhịp hơn. Một số lớn DN trong nước
sẽ bị khủng hoảng vì thời gian qua đã gánh thêm những khoản nợ quá lớn qua sự
hồ hởi cổ phần hóa và “lên sàn”, trong khi phần lớn số nợ mới chưa được sử dụng
đúng mức cho việc tái cấu trúc, phát triển DN để thực sự tăng hiệu suất. Các DN
này sẽ phải “trả nợ” cho sự xao lãng trách nhiệm; giá trị thị trường của họ sẽ
sút giảm. Thị trường sẽ trải qua một giai đoạn điều chỉnh. Các DN yếu kém sẽ bị
gạn lọc, đào thải. Các DN thực sự mạnh sẽ có cơ hội mua, sáp nhập với các DN
khác để tạo một thế mạnh chiến lược trên thương trường. Đây sẽ là “cơ hội vàng”
cho những doanh nghiệp mạnh, có khả năng tài chính mua lại những DN bị chao đảo
vì bội thực những khoản nợ lớn mà thị trường vốn đã dễ dàng giao cho họ trong
mấy năm qua. Lúc đó, nhu cầu định giá DN sẽ càng được quan tâm hơn.
Hiện nay có nhiều khái
niệm về định giá doanh nghiệp và thương hiệu chưa được
hiểu rõ ràng, chưa thích hợp với mục tiêu sử dụng các phương pháp định giá. Mục
đích bài này là để làm rõ một số khái niệm cơ bản đặc biệt cho các chủ doanh
nghiệp (chứ không phải cho các chuyên viên định giá) về vấn đề định giá doanh
nghiệp để bán, mua, hoặc sáp nhập (hai doanh nghiệp nhập thành một, hoặc hoán
đổi cổ phần) với mục đích hợp tác chiến lược.
Định giá DN là một nghệ
thuật, chứ không phải là một khoa học chính xác. Có rất nhiều phương pháp định
giá và mỗi phương pháp cho một đáp số khác nhau, con số cao nhất có thể cách xa
con số thấp nhất đến vài lần.
Giá trị của một DN
(value) được “định” với một số giả thuyết chủ quan, khác với cái giá (price) là
giá trị thuận mua vừa bán. Cái mà chủ DN quan tâm là cái giá cuối cùng mà người
mua và người bán có thể gặp nhau.
Mục đích định giá của
bên mua và bên bán là chỉ để thực tập bài toán giá trị với một số giả thuyết
tương đối hợp lý, nhưng rất chủ quan có lợi cho bên họ, để làm khởi điểm cho
cuộc thương thuyết mua bán. Chủ doanh nghiệp nên giao cho các chuyên gia định
giá làm công việc định lượng này. Tuy nhiên, cái giá cuối cùng giữa người mua
và người bán phần lớn được quyết định bởi những yếu tố định tính chứ không phải
định lượng.
Trong việc định giá DN,
người ta thường quên giá trị lớn nhất của DN vẫn là con người: Nhân sự quản lý,
hệ thống tổ chức quản lý, và văn hóa kinh doanh của DN. Đây là những yếu tố
không dễ dàng định lượng được, là những giá trị định tính phải được thuyết phục
trong cuộc thương lượng.
Các phương pháp định
giá (có tính định lượng cao) phần lớn thường được sử dụng cho việc cổ phần hóa
(vì chủ DN có thể chủ động định giá thấp hoặc cao, phục vụ cho mục tiêu định
giá của mình) và cho các vụ tranh tụng (ly dị, di chúc, thừa kế, tranh chấp nội
bộ DN…) vì tòa án hoặc các đơn vị hòa giải chỉ có thể căn cứ trên những yếu tố
định lượng sau khi đôi bên thỏa thuận sử dụng phương pháp nhất định nào đó để
có hướng giải quyết tranh chấp.
Giá trị nhất định của
một DN chỉ có thể được khẳng định khi DN tìm được một người mua thuận mua ở một
cái giá người bán vừa bán. Trên cơ sở lý thuyết, giá trị DN gồm có giá trị cứng
(có thể tương đối cân đong đo đếm được, như tổng tài sản hiện có, khả năng sinh
lời của DN…) cộng với giá trị thương hiệu của công ty. Giá trị thương hiệu là
một yếu tố vô hình; giá trị này chỉ có thể định được ở một mức độ tương đối cho
những công ty đã có một quá trình hoạt động ổn định lâu dài và phần lớn đã được
niêm yết.
Giá trị thương hiệu
= tổng giá trị cổ phiếu của công ty - tổng giá trị tài sản (gồm hiện vật và
hiện kim, hoặc theo cách tính dựa trên tổng giá trị thu nhập hàng năm cho một
khoảng thời gian trong tương lai). Mới đây Vietcombank định giá thương hiệu của
họ bằng cách lấy giá trung bình của các nhà đầu tư nước ngoài nộp thầu trừ cho
tổng giá trị tài sản của họ. Đây cũng chỉ là một cách tính tương đối vì giá trị
tài sản cũng chỉ được định ở một mức độ tùy theo cách tính.
Giá trị của bất cứ DN
nào nôm na cũng được quyết định bởi hai yếu tố: 1) DN này tạo nên được giá trị
gì qua các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ mà xã hội đang cần và chấp nhận mua; 2)
DN này đã làm gì để được xã hội dễ dàng nhận diện được họ, có cảm tình và tin
tưởng để quyết định chọn mua sản phẩm/dịch vụ của DN này thay vì chọn một DN
khác. Đó là hai yếu tố “quý” và “mến” tạo nên giá trị chung của doanh nghiệp.
Cái “quý” quyết định giá trị kinh tế thực tiễn; cái “mến” quyết định giá trị xã
hội (giá trị thương hiệu) hỗ trợ mức độ phát triển bền vững của DN.
Người mua quyết định
giá bán; người bán chỉ có quyền không bán chứ không chủ động được giá mua.
Người bán chỉ có được giá bán theo ý họ nếu họ có khả năng thuyết phục được
người mua có lời với cái giá họ muốn bán. Binh pháp nào cũng dạy: muốn thắng
phải biết người, biết ta và chủ động được tình thế. Trong thương trường cũng
vậy. Người bán cần phải biết thế mạnh và cả thế yếu của mình; người mua là ai,
họ đang cần gì, mong đợi gì để tạo giá trị gia tăng sau khi mua; thị trường
đang có những ai đang cung cấp sản phẩm dịch vụ tương tự như mình. Dù đã nắm
được những yếu tố chiến lược quyết định nhưng rồi kết quả định giá sẽ được
quyết định ở bàn thương thuyết, qua khả năng thương thuyết. Đó là giá trị của
người thương thuyết, của vị tướng trong chiến trận định giá.
Người thương thuyết
phải có đủ “IQ” (Intelligence quotient - độ thông minh, nhanh nhẹn) và “EQ”
(Emotional quotient - độ cảm nhận tình huống tốt, biết lắng nghe, thấu hiểu đối
tượng đang nói gì, phản ứng ra sao, biết ứng xử một cách tối ưu theo tình huống
chứ không chỉ thương thuyết một cách “duy ý chí”, “theo bài”).
Người mua nếu chưa có
DN riêng sẽ có điều kiện tương đối đơn giản hơn khi mua. Họ chỉ cần được thuyết
phục là DN họ mua sẽ tiếp tục đem lại một số lợi nhuận, cao hơn so với mức lợi
nhuận cao nhất mà họ đang có. Đó là sự quan tâm vào mức lợi nhuận và tính bền
vững của DN (điều kiện A). Điều kiện thứ hai là cái giá họ phải trả nếu chính
họ phải tham gia quản lý ở một mức độ nào đó để DN được tiếp tục phát triển tốt
(điều kiện B).
Họ sẽ mua nếu: A-Bmức
lợi nhuận cao nhất có thể có được nếu họ đầu tư vào một nơi khác (từ chuyên môn
là “chi phí cơ hội” - opportunity cost).
Bên mua có thể đã có DN
và muốn mua thêm để tăng thị phần và thế mạnh chiến lược của họ trong thị
trường sau khi hai công ty sáp nhập. Trong trường hợp này, giá trị “cộng hưởng”
(synergy) quan trọng hơn là giá trị nhất định của DN họ đang định mua - nghĩa
là sau khi mua cái tổng giá trị gia tăng sẽ cao hơn giá trị của từng DN cộng
lại.
Khi người mua đến với
người bán thì người mua đã biết họ đang cần gì và tại sao họ tìm đến bên bán.
Bên mua cũng đã có một ước tính họ sẽ lợi hơn được bao nhiêu so với một cơ hội
khác họ có thể mua. Gọi đây là mức lời X tối thiểu họ kỳ vọng thì họ sẽ sẵn
sàng trả cái giá (X-1) cho người bán. Nếu bên bán mong đợi bên mua trả cao hơn
(X-1) thì họ phải thuyết phục được bên mua là số X “thực” là một con số lớn hơn
con số X mà bên mua dự đoán.
Chiến lược mua bán có
thể được định bởi lãnh đạo DN, nhưng công việc thương thuyết phải được trao cho
những người có khả năng thương thuyết chuyên nghiệp. Chủ DN không nên giữ vai
trò thương thuyết vì thường thiếu độ khách quan và sự tỉnh táo cần thiết để
thương lượng có kết quả tốt. Hơn nữa, chủ DN cũng cần dành cho mình quyền quyết
định cuối cùng để tránh trường hợp bị bắt bí trên bàn thương thuyết.
Ưu tiên hàng đầu của
chủ DN là phát triển nội lực, biết thế mạnh của mình, nắm bắt được điều kiện thị
trường, biết rõ đối tượng, biết chọn thời điểm thuận lợi để mua bán, và biết
chọn đúng người để thương thuyết. Định giá chỉ là một công cụ tương đối cần chứ
không phải là điều kiện đủ.
Đăng nhận xét